LTS: Sau khi Khruchev hạ bệ Stalin, đế quốc cộng sản chia hai: Nga Xô chủ trương xét lại, sống chung hòa bình; Trung Quốc chống xét lại, nhất định gây chiến, thì Việt Nam cũng có hai phe, thân Nga và thân Tàu, nhưng vẫn còn Hồ Chí Minh cầm trịch. Hồ Chí Minh chết đi, rồi cộng sản chiếm được toàn quốc, tình thế thay đổi, đám đầu sỏ Việt Cộng tranh giành quyền bính, lợi lộc. Trong nước, phe không nắm quyền yếu thế, đành tìm cách cho tay chân, điển hình như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên,... ra ngoài kết nạp đám "thành phần thứ ba" và lũ ngụy đón gió trở cờ hầu tạo vây cánh. Bọn này làm ra vẻ phản tỉnh, chống đối, nói chuyện tự do dân chủ,... Nhưng lưu ý một chút sẽ thấy chúng chỉ sỉ vả kẻ đang nắm quyền hiện nay, mà vẫn kể lể công lao của bản thân, cha anh, Ðảng, Bác,... Tuy nhiên, một số người tị nạn tại hải ngoại kém trí nhớ và nhất là những bạn trẻ không biết gì về cộng sản có thể bị chúng và đám thò lò huyễn hoặc, nên NgD xin các tác giả cho lục đăng thành nhiều kỳ các bài vạch mặt bọn bài ba lá để ngăn chặn sự tác hại xảy ra.Các tác giả từng sống lâu dưới chế độ cộng sản, biết nhiều nhân vật cộng sản nên những điều viết ra đều là việc thật, người thật mà không phải là chuyện nghe hơi nồi chõ. Ðó là điều mà NgD giám khẳng quyết cùng thân hữu/độc giả.
Kính gửi: Ông Bùi Tín,
Nhân dịp đầu Xuân Quý Mùi (2003), ông cho công bố "Một phương án đổi mới trình đồng bào cả nước". Và ông kêu gọi mọi người tham gia thảo luận, góp ý.
Ghi nhận lời nhắc nhở của ông là: "dám suy luận bằng cái đầu tỉnh táo của mình, hoài nghi một số định lý, chân lý, tín điều cũ, dám nói to điều mình cho là đúng, khi cần, dám cưỡng lại số đông..."* Trên tinh thần ấy, chúng tôi xin chân thành thảo luận và đóng góp ý kiến với ông, hy vọng sẽ đưa ra công luận những sự thật của lịch sử Việt Nam đương đại.
Trước hết, chúng tôi xin hoan nghênh ông đã tuyên bố từ bỏ 9 huân chương kháng chiến, quân công, chiến công, chiến sỹ vẻ vang đã được khen thưởng trong suốt chiều dài 47 năm tận tụy phục vụ cho đảng cộng sản Việt Nam. Chính hành động này của ông đã khiến chúng tôi chấp nhận đối thoại với ông lần đầu tiên nhân dịp Xuân Quý Mùi này (2003).
Tại sao phải đến tận bây giờ chúng tôi mới chấp nhận đối thoại? Thưa ông, chính do nội dung 2 cuốn sách "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông đã khiến chúng tôi nhận ra rằng: chỗ đứng của chúng ta trong xã hội Việt Nam khác nhau về căn bản nên phương pháp tiếp cận sự thật, mô tả sự thật của chúng ta hoàn toàn ngược nhau.
Chỗ đứng của ông là chỗ đứng của kẻ cai trị.
Chỗ đứng của chúng tôi là chỗ đứng của người bị trị, của người chống xâm lược.
Thưa Ông Bùi Tín,
Yêu nước hay bán nước?
Trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật", ông đã trưng dẫn rất nhiều hình ảnh sống động, bằng cả số liệu để chứng minh những tội ác mà Hồ chí Minh và tập đoàn nắm quyền trong đảng cộng sản Việt Nam gây ra cho nhân dân và đất nước Việt Nam cho đến tận giờ phút này, đều bắt nguồn từ việc sao chép, áp đặt cái gọi là chủ nghĩa Stalin của Nga-xô và tư tưởng Mao trạch Ðông của Tàu cộng. Ðã có lúc ông tiệm cận được chân lý khi ghi nhận câu nói của một nhà báo Mỹ (ông không ghi rõ tên) gặp ông ở Sài-gòn khoảng 1976-1977, rằng: "Các ông đã thắng trong chiến tranh, nhưng đã không thắng được trong hòa bình, các ông không chinh phục cũng không giải phóng được miền nam, các ông xử sự như những đội quân chiếm đóng" (1). Và, ông nhận xét câu nói đó "thật là sâu sắc", có nghĩa ông nhận thấy cách hành sử của giới chức cộng sản cầm quyền và quân lính của tướng Trần Ðộ tôi luyện là những tên xâm lược. Ðó là khía cạnh nhạy bén của một nhà báo kỳ cựu và được tiếp xúc với bên ngoài nhiều, nhưng vì chỗ đứng là "đảng viên cộng sản ở vị trí có quyền" nên ông mượn lời một nhà báo Mỹ khuyết danh để che đậy cái thế éo le của ông: người thức thời trong hàng ngũ lũ bán nước!
Dám nhìn vào cuộc sống thật của nhân dân Việt Nam, nhưng ông lại phải làm cái việc bảo vệ chỗ đứng của ông, bảo vệ cái tổ chức mà ông đã đầu tư toàn bộ niềm tin, tuổi trẻ; cả mồ hôi và máu, cho nên ông đã chân thật viết rằng: "Trên tinh thần ấy, tôi không thể quay ngoắt lại chửi bới đảng cộng sản, nói xấu đủ điều, phóng đại những sai lầm và tự phủ định chính mình về tất cả mọi mặt." (2)
Cái thế éo le đó của ông, đã khiến ông luôn luôn mô tả, thì tương đối chân thật, nhưng kết luận thì tránh né cốt lõi của sự thật.
Hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông được viết ra sau khi cả Nga-xô và khối chư hầu Ðông-âu của nó đổ kềnh. Nhiều tài liệu phong phú đã bổ xung cho việc vạch trần những tội ác trời sầu đất thảm của tập đoàn cai trị ở các nước gọi là "phe xã hội chủ nghĩa". Những người làm cái việc vạch trần các tội ác đó, phần lớn đều sống trong "địa ngục xã hội chủ nghĩa", và cũng hầu hết đều ở cái thế éo le như ông. Nghĩa là, một tay thì vạch sự thật, còn tay kia tự che mắt không dám thấy tay mình cũng có máu. Vì thế, cách lập luận cứ vòng vo tam quốc, trình bày theo lối hàn lâm, kinh viện, tránh né nói toạc móng heo cho dễ hiểu.
Thí dụ: Lê-nin là cha đẻ của chủ nghĩa thực dân đỏ thì lại gọi là chủ nghĩa Lê-nin. Lê-nin mượn chủ nghĩa Marx làm bộ áo cà-sa để che đậy bộ mặt bành trướng bá quyền. Vì thế nên ngay lúc Nga-xô còn bao khó khăn, Lê-nin phải ký hiệp ước để các nước vùng Baltique và Ukraine chịu ảnh hưởng của Ðức, thì từ đầu những năm 1920 đã cho lệnh tiến quân đánh chiếm Ngoại-mông (nay là nước Mông cổ), đặt thành thuộc quốc trên thực tế, còn về danh xưng thì màu mè gọi là "nước bạn". Rồi lại đẻ ra cái gọi là "Quốc tế 3" với luận điểm ủng hộ sự giải phóng của các thuộc địa (ra khỏi chủ nghĩa thực dân "xanh") mà thực chất đó là công cụ của Nga-xô nhằm tuyển mộ, đào tạo người của các nước, nắm chặt cả thân xác lẫn linh hồn họ, biến họ thành tay sai, trở về tổ chức chống "thực dân xanh", để rồi tự nguyện làm nô lệ cho thực dân đỏ (là chế độ được đội tên là "Liên bang xô viết).
Mao trạch Ðông của Tàu cộng thấy được âm mưu đó của Nga-xô, cho nên cũng dùng cái áo "chủ nghĩa Marx-Lê-nin" để chống lại Nga-xô, và cũng muốn giành quyền độc tôn trong chủ nghĩa thực dân đỏ mà thôi.
Chẳng làm gì có cái gọi là "chủ nghĩa giáo điều (hay phần tử giáo điều)". Nếu nhìn vào hành động thực tế, thì cả Lê-nin và cả Mao đều là "xét lại" so với chủ nghĩa Marx. Lê-nin đã nói và làm ngược với Marx là "cách mạng có thể thành công ở một nước"; còn Mao thì dựa vào nông dân chứ không dựa vào công nhân, và lấy "nông thôn bao vây thành thị". Vậy họ "giáo điều" ở chỗ nào?
Vì thế, nên những mục tiêu của chủ nghĩa Marx lại chỉ xuất hiện ở các nước "tư bản, đế quốc", như về năng suất lao động, về phúc lợi xã hội, nhân quyền, tự do, dân chủ v.v... Còn ở các nước lấy chủ nghĩa Marx-Lê-nin làm kim chỉ nam thì hoàn toàn ngược lại. Cũng may là nhờ ăn, ở trong nước tư bản, nghiên cứu, sáng tạo và phổ biến trong điều kiện của nước tư bản mà các tác phẩm của Marx được quảng bá, và Marx chết cũng trong yên lành. Chứ nếu Marx ở một trong bất cứ nước nào với mô hình "xã hội chủ nghĩa", thì chắc chắn Marx sẽ được đưa vào "tầng đầu của địa ngục", hoặc bị nghiền nát ở "Quảng trường Thiên an môn", hoặc đập đá ở trại giam Ðầm Ðùn của Hồ chí Minh cho đến chết!!!
Những thông tin trong hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" của ông chỉ rất phong phú với người chưa sống qua hoặc sống mà không có điều kiện hoặc không đặt mục tiêu nghiên cứu về cuộc sống của người dân dưới cái gọi là "chế độ xã hội chủ nghĩa". Còn với người đã có ít nhiều kinh nghiệm về sự cai trị của tập đoàn Hồ chí Minh và những kẻ nối nghiệp hắn thì còn hời hợt, còn nhiều chỗ sai và nhiều mâu thuẫn, quanh co.
Như chúng tôi đã nhận xét, rằng chỗ đứng của ông là của kẻ cai trị, mà lại là kẻ cai trị trong tổ chức cộng sản, nên nó vẫn đậm màu sắc ban ơn, kẻ cả và mâu thuẫn. Thí dụ, ngay những trang đầu của "Hoa xuyên tuyết", ông đã viết: "Các bạn trẻ là tương lai của đất nước. Hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho minh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xa. Các bạn hãy coi đây là lời tâm sự, là lời tâm huyết của một người đi trước nhận tội lỗi của thế hệ mình, của chính mình trước thế hệ trẻ thân yêu và tin cậy." (3)
Trong đoạn văn nêu trên, ông kêu gọi "hãy tìm hiểu quá khứ và hiện tại", nhưng rồi ông lại cũng ủng hộ hết mình lập luận kêu gọi: "quên quá khứ". Thậm chí ông còn đi xa hơn khi viết: ... "không nhắc đến những người đã quá cố vì họ không có khả năng tự bảo vệ nếu họ bị lên án". (4) (!!!???)
Và, y hệt giới chức có quyền của cộng sản, luôn luôn tự cho phép thay mặt mọi người mà chẳng hề hỏi ý kiến ai. Cao và xa thì như việc bảy (7) tên cộng sản Việt Nam dám thay mặt cả nhân dân Lào và Cam-bốt, để theo lệnh của Quốc tế 3 (Nga-xô) thành lập "đảng cộng sản Ðông dương"; gần thì Hồ chí Minh và cái dúm tay chân của hắn "tự cho phép thay mặt nhân dân Việt Nam" để xây dựng cái gọi là chủ nghĩa xã hội; để dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng; dâng cảng Cam-ranh cho Nga-xô v.v... Ông cũng thế, ông Bùi Tín ạ! Làm sao ông có thể và có quyền thay mặt cho thế hệ của ông để nhận tội với thế hệ trẻ?(!)
Trong thế hệ của ông, số như ông là bao nhiêu? Ngay từ 1945, những người của đảng Ðại Việt đã thấy cái chất yêu tinh trong lốt người của Hồ chí Minh; rồi tiếp đến là Ðức cha Lê Hữu Từ cùng với giáo dân, nhất là ở địa phận Bùi Chu và Phát Diệm; rồi các người theo các giáo phái Cao-đài, Hòa-hảo v.v... cho nên mới có chuyện "bất hợp tác" với Hồ.
Từ sau các phong trào do Hồ chí Minh phát động như "đấu tranh chính trị", "rèn cán chỉnh quân" và sự công khai trở lại cái công cụ bành trướng của chủ nghĩa thực dân đỏ (tức chủ nghĩa Lê-nin - Stalin) là đảng cộng sản Ðông dương, phân thân làm ba (3) cho dễ biến hóa, mà cái phần ở Việt Nam gọi là "đảng Lao động VN", thì những người ở thế hệ của ông đã ào ào tụ họp lại thành lực lượng chống sự xâm lược của thực dân đỏ. Lúc đó, chưa có điều kiện, chưa có nhiều dữ kiện cụ thể để chứng minh được cuộc chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp đã bị Hồ chí Minh lèo lái thành cuộc chiến dùng người Việt Nam chết cho chủ nghĩa thực dân đỏ Nga-xô, tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp. Cho nên người ta đã mơ hồ gọi là cuộc chiến quốc - cộng, hoặc có khi gọi là chiến tranh ý thức hệ, để sau này còn lầm lẫn nặng hơn khi gọi đó là cuộc chiến huynh - đệ!!! Ðây là cuộc chiến giữa nhân dân Việt Nam chống những tên Việt gian, lính đánh thuê cho thực dân đỏ Nga-xô, Tàu cộng. Nghĩa là chống thực dân đỏ xâm lược.
Ông đã kinh ngạc khi kể lại những chuyện Hồ chí Minh bị Stalin và Mao coi thường như thế nào: Hồ và lũ cán bộ cộng sản của Hồ đã răm rắp tuân theo một cách ngoan ngoãn những lệnh của Stalin, những ý kiến của cố vấn Tàu do Mao phái sang. Ông đã tả rất sinh động cảnh các cố vấn Tàu cộng ngồi gác hai chân lên bàn, nhổ nước miếng ồn ào rất là Tàu và ra mọi mệnh lệnh, và từ Hồ cho đến Trường Chinh, Hoàng quốc Việt v.v... kính cẩn chấp hành.
Ông là người đọc nhiều, đi nhiều, gặp gỡ nhiều, xin hỏi ông có thấy trong lịch sử Việt Nam và các nước trên thế giới (ngoại trừ các nước chư hầu cộng sản của Nga-xô và Tàu cộng) có chuyện như vậy xảy ra không? Chắc chắn là không. Còn nếu có thì chỉ xảy ra giữa mẫu quốc và thuộc địa; giữa khâm sai thiên triều với lũ tay sai bán nước mà thôi!
Chính vì chỗ đứng của ông ngược với chúng tôi, nên tuy có thức thời nhìn ra những cảnh trên, nhưng vì không dám "tự phủ định chính mình" (như ông viết), nên ông bào chữa cho bộ mặt bán nước của Hồ và chân tay kế cận là bị ảnh hưởng Stalin-nít và Mao-ít!!!
Ông thử trích xem trong "chủ nghĩa Stalin" và "chủ nghĩa Mao" có chỗ nào qui định cho "cố vấn" ngồi gác hai chân lên bàn, khạc nhổ bừa bãi và ra lệnh cho "chủ tịch nước", "tổng bí thư đảng" v.v... và tất cả phải chấp hành không dám bàn cãi, dù phải rất tàn bạo đối với cả ân nhân của mình, như cái chết của bà Nguyễn thị Năm (tức Cát Hành long) là một ví dụ.
Vì không dám nhìn vào cái sự thật của những hành động và thái độ Việt gian đó của tập đoàn Hồ chí Minh, nên ông đã viết sai với sự thật rằng: "Tôi ở trong quân đội do đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo từ tháng 9-1945 đến 10-1982." (5)
Vào thời điểm 1945, ngay tại Pháp, trong chính phủ của tướng Ðờ-Gôn có sự tham gia của Mô-rít Thô-rê (tên nguyên thuỷ?), là chủ tịch đảng cộng sản Pháp, thế mà Hồ lại phải giải tán đảng cộng sản Ðông dương, Trong khi các đảng khác như Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội... tham gia Chính phủ Liên hiệp, đâu cần phải giấu mặt như Hồ và bè lũ. Tại sao vậy? Bởi vì nhân dân Việt Nam ghê tởm bàn tay máu của cộng sản từ cái gọi là Xô-viết Nghệ-tĩnh, và Hồ còn muốn cố che cái công cụ bành trướng của thực dân đỏ khỏi bị chú ý đến.
Mong ông hãy tham khảo lại "Biên niên tiểu sử của Hồ" (có trong cái gọi là "Bảo tàng cách mạng") để thấy rằng thời kỳ đầu ra đời của lực lượng vũ trang là do sự hợp nhất các lực lượng vũ trang của các đảng phái, có cả bảo an binh của Chính phủ Trần Trọng Kim để lại. Cụ Vũ Hồng Khanh (VNQDÐ) là bộ trưởng quốc phòng; giáo sư Tạ quang Bửu (khi đó chưa là cộng sản) giữ chức thứ trưởng và các cán bộ khung là Hoàng đạo Thúy (huynh truởng hướng đạo) làm chính trị vụ trưởng; bác sỹ Vũ văn Cẩn (nhân sĩ yêu nước) làm y tế vụ trưởng, và Vũ Anh (Việt minh) làm chế tạo vụ trưởng. Lực lượng vũ trang được gọi là quân đội quốc gia, được đặt dưới sự lãnh đạo của Chính phủ Liên hiệp, chứ không phải của đảng cộng sản!
Trong cái lực lượng quân đội đó, nhân sự là cộng sản hồi ấy chỉ có một nhúm rất nhỏ mà cũng chẳng dám công khai nhận mình là cộng sản. Số lớn những người có tài là từ lực lượng vũ trang của VNQDÐ như các tướng Nguyễn Bình, Nguyễn văn An v.v... Một số khác từ lò lính Pháp mà ra, rồi vào lực lượng bảo an binh, như Lê trọng Tấn, Bằng Giang, Lô Giang... Số khác là từ học sinh, sinh viên như các tướng Vũ Lăng, các đại tá Lê minh Nghĩa, trung tá Nguyễn sanh Thí... Thậm chí cả những người được đeo lon cấp tá như Nguyễn đình Thi, Ðỗ Nhuận, Trần Dần, Hoàng Cầm, Cao kim Ðiển, Quang Dũng v.v... cũng chẳng biết cộng sản là cái quái gì khi gia nhập quân đội. Và, chính ông cũng thế. Phải chờ đến sau khi Mao làm chủ lục địa, quân đội Quốc gia Việt Nam bị Hồ, nhân danh Chính phủ Liên hiệp, đưa qua Tàu làm cái việc tẩy não, rèn cán chỉnh quân, dụ khị, cưỡng bức mọi người gia nhập cộng sản, biến cái chính nghĩa của Quân đội Quốc gia trong nhiệm vụ giải phóng Tổ quốc và dân tộc khỏi ách thực dân Pháp thành ngụy quân và cái danh xưng Quân đội Quốc gia bị đánh tráo thành "quân đội nhân dân" hay"bộ đội cụ Hồ"(!!!), công cụ của thực dân đỏ, để tranh giành thuộc địa với thực dân Pháp trên toàn cõi Ðông dương.
Cho nên cái lực lượng vũ trang mà ông tham gia thoạt kỳ thủy không phải do "đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo" như ông đã viết. Vì thời kỳ đó, về công khai, làm gì có đảng cộng sản!!! Huấn luyện viên của các trường quân chính hầu hết không ai là cộng sản mà là hàng binh Nhật trốn ở lại; là cai, đội người Việt trong lính của Pháp cũ; là lực lượng bảo an binh của chính phủ Trần Trọng Kim để lại v.v... Quân đội đó từ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam mà ra, theo lời kêu gọi của Chính phủ Liên hiệp.
Ngay Trần Ðộ, trong hồi ký viết lần đầu, do Nhà xuất bản Thanh niên in năm 1957, có kể rằng: cuối 1944, Trần Ðộ là bảo vệ của Trường Chinh, được Trường Chinh trao cho một khẩu súng lục Browning và 2 viên đạn. Trần Ðộ giữ súng đạn mà vẫn chưa biết sử dụng. Một hôm đi qua Nghĩa đô thuộc huyện Từ liêm (Hà-nội), bị trương tuần của làng vây bắt. Trần Ðộ rút súng ra, tuy không có đạn nhưng trương tuần không biết nên sợ hãi bỏ cho Trần Ðộ đi thoát. Sang giữa năm 1946, Trần Ðộ được đưa về trung đoàn Thủ đô, cũng vẫn chưa biết gì về súng. Ðơn vị có khẩu trung liên của lính người Việt trong đơn vị lính Pháp lấy mang về. Anh em thấy Trần Ðộ do trên phái tới, tưởng giỏi lắm, nhờ Trần Ðộ chỉ dẫn. Trần Ðộ có biết gì đâu, nhưng láu vặt, không thực thà nói rằng không biết mà giả vờ lệnh cho người lính Việt Nam đã ở trong binh lính của Pháp ra tháo và lắp khẩu súng cho anh em xem, nhân đó Trần Ðộ cũng học mót.
Quyển hồi ký đó của Trần Ðộ ra lò cùng thời cuốn "Ký sự Ðiện biên", năm 1957, chắc chắn còn lưu giữ trong thư viện Quốc gia (phố Tràng thi, Hà-nội). Nếu ông chưa từng đọc qua, có thể e-mail về Việt Nam, nhờ ai đó đọc hộ. Từ đó để thấy, sau 45 năm, tưởng thiên hạ quên hết chuyện cũ, nên trung tướng cộng sản Trần Ðộ đã tự ý sửa lại hồi ký của mình, năm 1957, để từ bảo vệ (tức lính hầu) của Trường Chinh, thành "được đảng phân công giúp việc cho tổng bí thư Trường Chinh". (6) (Ðúng là Cuội nên là tướng "chính ủy" có khác!!!)
Tiếp theo là các chính sách Việt gian nữa của Hồ đã khiến nhân dân Việt Nam chia làm hai khối. Một do Hồ cầm đầu quyết từng bước nhuộm đỏ toàn Ðồng dương, biến Ðông dương thành thuộc địa kiểu mới cho Nga-xô như Hồ đã nhận lệnh từ 1930, khi lập ra đảng cộng sản Ðông dương. Khối còn lại là những người Việt Nam quyết bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Chính dã tâm của Hồ đã khiến năm 1954 Việt Nam tạm bị chia cắt làm hai miền qua hiệp định Genève về Việt Nam.
Ngay khi thi hành hiệp định Genève 1954 về Việt Nam, bọn Hồ đã có dã tâm vi phạm. Chính ông đã kể lại lời Lê Duẩn rằng: ..."Tôi nghĩ ngay đến bạo lực. Tôi bảo anh em chôn súng. Tôi bàn với anh em để lại lực lượng ở miền Nam, không tập kết hết cả đâu nhé..." (7) Và ông cũng có nói đến nghị quyết 15 (khóa 2), của cộng sản Việt Nam, hạ quyết tâm dùng bạo lực vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam. Cái nghị quyết 15 ấy được ra đời trong cuộc họp dưới sự chủ trì của Hồ vào tháng 1-1959 (không hiểu sao ông lại viết lầm là 1960). Vì thế đến tháng 10-1959 chính phủ Ngô Ðình Diệm phải có sắc luật 10/59 để tự vệ chống chủ trương bạo lực của cộng sản.
Ðó là bằng chứng rõ ràng về dã tâm của tập đoàn Hồ chí Minh đối với nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân và chính quyền miền Nam Việt Nam vì tự vệ đã phải trừng trị những tên tay sai của thực dân đỏ nằm vùng, dùng bạo lực cướp của, giết người, phá hoại đời sống của người dân miền Nam. Nhưng do chỗ đứng của ông, nên ông đã nhìn sự việc lộn ngược, gọi bọn cướp của, giết người, bọn Việt gian, tay sai của thực dân đỏ đó là: "những người yêu nước"!!!(?)
(còn tiếp)
Chú thích:6) Hồi ký mới đây của Trần Ðộ, phổ biến trên nhiều Web 7) Hoa xuyên tuyết - tr. 126(*) Một phương án trình đồng bào cả nước. Bùi Tín - tr. 4
1) Hoa xuyên tuyết - tr. 38 (Nhà xb Nhân quyền 1991)
2) Hoa xuyên tuyết - tr. 64 (Nhà xb Nhân quyền 1991)
3) Hoa xuyên tuyết - tr. 6 (Nhà xb Nhân quyền 1991)
4) Mặt Thật - tr. 312 (Saigon Press xb 1993)
5) Hoa xuyên tuyết - tr. 63