Hoan nghiênh ông Bùi Tín
(tt, bài khởi đăng từ NgD 156)

Việt Thường - Nam Nhân - Lý Tuấn

Thưa ông Bùi Tín,

Những người Việt Nam rời vùng Hồ chí Minh cai trị, chạy vào thành thị trước năm 1954; những người từ Bắc di cư vào Nam, năm 1954; toàn thể nhân dân miền Nam Việt Nam cùng với bây giờ là đại bộ phận người Việt tị nạn cộng sản ở hải ngoại (loại trừ bọn nằm vùng, bọn gọi là "thành phần thứ ba", bọn cơ hội chủ hàng), và phải kể đến cả những người dân thường ở Bắc Việt Nam - mà ông gọi là công dân loại 2 - tuy cùng thế hệ với ông, nhưng tất cả đều là nạn nhân của cuộc xâm lăng vũ trang của thực dân đỏ mà tập đoàn cộng sản Việt gian Hồ Chí Minh và bè lũ kế nghiệp thực hiện, cho nên họ không hề có tội gì với thế hệ trẻ để phải nhờ ông thay mặt xin lỗi. Hơn nữa, nếu viết như ông, rằng cả một thế hệ có sai lầm thì huề cả làng. Ðây là kiểu xin lỗi rất quái chiêu, không biết phải nói như thế nào.

Cái lối tư duy đó của ông đã khiến ông không thấy rằng chính thế hệ trẻ hiện nay đang mang món nợ to lớn đối với thế hệ đàn anh, đã và đang chiến đấu chống chủ nghĩa thực dân cả xanh, cả đỏ, cả lũ cộng sản Việt gian bán nước là tập đoàn Hồ Chí Minh và những tên kế tục hắn cho đến nay là bọn Nông Ðức Mạnh, Lê Khả Phiêu, Ðỗ Mười, Lê Ðức Anh, Võ văn Kiệt, Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Văn An, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Di Niên, Lê Công Phụng v.v... Biết bao nhiêu người đã hy sinh thân mình. Một số rất ít được chôn cất ở các nghĩa trang, thì sau tháng 4-1975, chính ông cũng thừa nhận rằng bị tập đoàn cộng sản Việt gian chóp bu cho san bằng mồ mả. Các thương phế binh của QLVNCH còn ở lại Việt Nam bị đối xử ra sao? Ngay những người đã chết từ lâu, trên mảnh đất của mình, mà bị đối xử như vậy, thì thấy bọn chúng còn tàn bạo hơn cả thực dân xanh (tức Pháp). Vì thực dân Pháp vẫn tôn trọng ngôi mộ của các liệt sỹ VNQDÐ ở Yên Bái, mộ của Ðề Thám, của Phan Ðình Phùng, Phan Chu Trinh v.v... và ngay cả mộ của bè lũ Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao... (Xô viết Nghệ tĩnh) cho đến Trần Phú, Hà Huy Tập... và cả mồ bố đẻ của Hồ Chí Minh đâu có bị chính quyền miền Nam Việt Nam san bằng.

Ra đến hải ngoại, các thế hệ đó vẫn tiếp tục phục quốc, đấu tranh cho dân chủ, tự do của dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Việt Nam không ngừng nghỉ. Những Phạm Phú Quốc, Ngụy Văn Thà, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Văn Long... và bao chiến sỹ vô danh đã ngã xuống trước đây; những Hoàng Cơ Minh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch... vừa qua; những Lý Tống, Nguyễn Thị Ngọc Hạnh vẫn còn đang nằm tù vì đấu tranh cho quê hương và dân tộc. Những cuộc xuống đường của hàng 50 ngàn người về California trong vụ tên Việt gian Trần Trường; hàng 25 ngàn người trong kỷ niệm tượng đài chiến sỹ Việt-Mỹ vừa qua v.v... Thế hệ trẻ phải có trách nhiệm thừa kế thế hệ đàn anh, tiếp tục đấu tranh loại trừ tụi Việt gian cộng sản hiện nay, phải "tìm hiểu quá khứ và hiện tại, cố lý giải cho minh bạch mọi vấn đề và từ đó bắt tay xây dựng tương lai gần và xa."(8)

Ðúng vậy, nếu không tìm hiểu quá khứ và hiện tại thì sẽ mơ hồ mà hành động như kiểu nhóm trí thức trẻ ở Toronto, dâng hương tưởng niệm, đọc văn tế trung tướng cộng sản Trần Ðộ; hoặc như "giáo sư, nhà bình luận chính trị" Nguyên Khả Phạm Thanh Chương, mạt sát những người không tưởng niệm Trần Ðộ là "những cái đầu con tôm", nhưng khi được ông Ðại Dương lịch sự chỉ dẫn cho bệnh táo bón thông tin, dư thừa ngôn ngữ Cầu Ông Lãnh thì Nguyên Khả "lặn" mất tăm, không dám trả lời đúng hay sai (dù bằng loại ngôn ngữ nào cũng được).

Ông chỉ có thể thay mặt cho thế hệ của ông đã và đang còn nằm trong bộ máy đàn áp của tập đoàn Việt gian cộng sản để xin lỗi thế hệ trẻ về những sai lầm tàn bạo, đẫm máu gây ra cho nhân dân và đất nước Việt Nam. Xin thành thật ghi nhận thiện chí của ông, nếu ông làm được điều đó.

Nhưng, xin lỗi chưa đủ, mà phải giúp cho thế hệ trẻ những thông tin trung thực, những kinh nghiệm máu và nước mắt của bản thân để họ dễ dàng "hiểu quá khứ và hiện tại" ít nhất cũng phải tương đối chính xác, làm cơ sở để "lý giải minh bạch mọi vấn đề".

Ðặc tính của tập đoàn Việt gian cộng sản là "vừa đánh trống vừa ăn cướp", là "ký sinh trùng" của xã hội, là "nói một đằng làm một nẻo".

Hai cuốn sách của ông đã phơi bày mọi chính sách, mọi chủ trương của tập đoàn Hồ chí Minh và lũ thừa kế hắn, hoàn toàn do Nga-xô hoặc Tàu cộng chỉ đạo, sai khiến. Cung cách của chúng trước Nga-xô và Tàu cộng hoàn toàn là của lũ đày tớ vừa hèn hạ vừa trung thành mù quáng.

Những dẫn chứng cụ thể và sự mô tả của ông rất rõ ràng. Ðúng ra phải kết luận rằng đấy là cốt cách Việt gian! Tiếc rằng ông, tuy biết hổ thẹn về "cấp lãnh đạo" đó của ông, nhưng chưa đủ can đảm để căm thù chúng, mà lầm lẫn kết luận sai và trút căm thù sai chỗ khi ông viết: "Cái duyên nợ nặng nề nhất với Việt Nam thì phải nói đến Stalin và Mao trạch Ðông... Hai nhân vật này đã mang đến Việt Nam những cơn bão cấp 10, những cơn động đất đến 10 độ, làm điêu đứng từng gia đình, từng con người ở Việt Nam"! Tất nhiên là thông qua "thiện chí mù quáng" của đảng cộng sản Việt Nam. Tất cả bi kịch là ở đó."(9) Và, ông gọi Stalin là "... tên khát máu man rợ nhất, một con thú dữ lộng hành suốt hơn 30 năm cầm quyền, một kẻ gây tai họa cực lớn cho xã hội, nhân dân Liên-xô và thế giới" (10) Ông viết tiếp: "Stalin đã tạo ra những tên đồ tể dưới trướng hắn như Béria." (11)

Về Mao, ông viết: "... từ 1950 đến tận 1978, sách ông Mao tràn ngập các cửa hàng bán sách Nhân dân và các tủ sách công cộng: trong thư viện Quốc gia Hà-Nội, sách của Mao được xếp vào loại kinh điển cơ bản nhất. Thư viện các cơ quan cho đến tủ sách các khu phố, trường học, xí nghiệp... đều tràn đầy sách của Mao... Sự sùng bái mù quáng Mao đạt đỉnh cao nhất vào tháng 12-1951, tại Ðại hội Ðảng lần thứ 2 họp trên căn cứ Việt Bắc, trăm phần trăm đại biểu giơ tay thông qua điều lệ mới của đảng ghi rõ trên giấy trắng mực đen: Ðảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Engels - Lênin - Stalin và tư tưởng Mao Trạch Ðông làm nền tảng. Mặt trời chói lọi ấy chỉ ít lâu sau đã chiếu rọi khắp đồng quê miền Bắc, với những cuộc đấu tố kinh hoàng giai cấp "địa chủ" (mà phần lớn chỉ là phú nông hoặc trung nông lớp trên); vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em đấu tố nhau..."(12) Và, ông khẳng định ai là chủ ở miền Bắc Việt Nam khi ấy, khi hạ bút viết: "Những phái viên kiệt xuất của Mao chủ tịch là những ông chủ thực sự của cải cách ruộng đất... mà mỗi lời phán, gợi ý, đề xuất được coi là mệnh lệnh, là chỉ lệnh của Mao chủ tịch vĩ đại!"(13) Ðoạn văn trên của ông minh chứng Hồ và đảng của hắn là Việt gian! Tiếc rằng ông chỉ dám giải thích cái hiện tượng đó là do: "Sùng bái mặt trời phương Ðông, nể sợ thiên triều Bắc Kinh, ông Hồ đã truyền cho những người lãnh đạo khác ở quanh ông, cho cả đảng cộng sản một thái độ thụ động vô lý, mất hết khả năng phản kháng và tự vệ".(14)

Tất cả những trích dẫn trên đều do ông tự nguyện viết ra, ấy thế mà do chỗ đứng của ông, nên ông lại rất mâu thuẫn khi cố bào chữa cho Hồ rằng: "Ở phía những người quốc gia cực đoan nhất thì sự đánh giá ông Hồ là hoàn toàn tiêu cực"!!!(?)(15)

Ðể rồi ông lại chán nản thốt ra rằng: "Trong các giáo trình lịch sử được dạy ở các trường hiện nay (tức trường của cộng sản), nhiều sự kiện, nhân vật... cũng bị xuyên tạc. Các giáo trình ấy cho rằng Việt Nam Quốc Dân Ðảng sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, đã tan rã hoàn toàn. Các tổ chức VNQDÐ sau đó rồi Ðại Việt Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt Duy Dân cũng như Cách mạng Ðồng Minh Hội... đều bị coi là những tổ chức phản động, những tổ chức tay sai của Quốc Dân Ðảng Trung quốc, tay sai của thực dân Pháp hay đế quốc Mỹ; nói tóm lại những tổ chức ấy đều là những tổ chức "Việt gian", là kẻ thù của dân tộc".(16)

Những tổ chức nói trên mà ông ghi nhận rằng bị tập đoàn Hồ chí Minh và lũ thừa kế coi là "Việt gian", lại còn qua giáo trình lịch sử để nhồi nhét vào đầu các thế hệ trẻ sự "xuyên tạc" ấy, chắc chắn không hề có chủ trương, chính sách, thái độ vâng dạ như Hồ và cái đảng cộng sản của hắn trước mẫu quốc Nga-xô và Tàu cộng để sát hại nhân dân Việt Nam, Lào và Căm-bốt. Bởi vì chính Hồ, trong cuộc gặp gỡ Lăng Kỳ Hán và Hồng Chi Hằng trong phái bộ của Trung Hoa Dân Quốc, giữa năm 1946, đã trịnh trọng khẳng định rằng: "Ở Việt Nam bất kỳ đảng phái nào cũng nhất trí đòi hỏi độc lập".(17)

Ðấy là một sự thật. Nhưng là sự thật chưa đầy đủ, vì đảng nào cũng mưu cầu độc lập cho Việt Nam, chỉ riêng đảng cộng sản Ðông dương là trước khi ra đời (1930), sau khi ra đời cho đến nay đều tìm cách triệt hạ các đảng phái, các cá nhân không chấp nhận để nhân dân và đất nước Việt Nam thành chư hầu của đế quốc đỏ Nga-Tàu.

Trần Ich Tắc bị đi theo quân Nguyên vào Việt Nam (chắc vì ươn hèn và tham vọng). Những Hoàng cao Khải, Lê Hoan, chắc chắn tội ác không bằng một phần tỷ của Hồ. Khi Hồ còn sống đã dâng biển dâng đất cho Tàu cộng. Bọn thừa kế Hồ là Ðỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh... lại vừa tiếp tục dâng đất, dâng biển cho Tàu cộng và v.v...

Những kẻ nói trên bị lịch sử kết tội là Việt gian thì Hồ và lũ thừa kế của hắn phải là đại, đại Việt gian.

Dù ông cố tìm cách phủ nhận, nhưng sự mô tả của ông về Hồ và bè lũ qua hai cuốn "Hoa xuyên tuyết" và "Mặt thật" đã chứng minh hùng hồn và cụ thể rằng chúng, tức Hồ chí Minh và đảng cộng sản của hắn, là lũ Việt gian bán nước.

Ai là ngụy quân?

(còn tiếp)

Chú thích:

8) Hoa xuyên tuyết - tr. 6 (Nhà xb Nhân quyền 1991)
9) Mặt thật - tr. 103 (Saigon Press xb 1993)
10+11) Mặt thật - tr. 36
12) Mặt thật - tr. 36-37
13) Mặt thật - tr. 37
14) Mặt thật - tr. 39
15) Mặt thật - tr. 90
16) Mặt thật - tr. 117
17) Vì thế mới có "tự vệ sao vuông thành Hoàng Diệu", "Cảm tử quân thành Hoàng Diệu", "công nhân thành Hoàng Diệu" v.v...


%% Trở lại mục lục