Hồ Chí Minh và đệ tử
hay
Việt Cộng: người thật, việc thật

Việt Thường

LTS: Theo đề nghị của các thân hữu/độc giả và được tác giả Việt Thường cho toàn quyền, NgD đã lựa các phần thiết đáo của hai cuốn Sự Tích Con Yêu Râu Xanh Tại Việt Nam và Chuyện Thâm Cung Dưới Triều Ðại Hồ Chí Minh thành một tài liệu và đã tìm được người dịch ra Anh và Pháp ngữ.
Chúng tôi lần lượt lục đăng toàn bộ để các thân hữu/độc giả có một ý niệm về tài liệu trên và mong nhận được ý kiến đóng góp, khiến nó trở nên hoàn hảo. Sau đó sẽ mang nhờ các thân hữu người Mỹ, người Pháp nhuận sắc lại cho đúng với nhận thức và văn phong của dân tộc họ rồi mới mang in.
Nhân vật cộng sản Việt
Phạm Thị Trùng Dương

Trong bài "Về việc dịch sách Con Yêu" (NgD146), ông Phạm Tưởng đề nghị cần có chú giải, gồm một phần tóm tắt sự khác biệt giữa chủ thuyết "công xã" đại đồng lý tưởng hoang đường của Marx-Engels (đệ nhất, đệ nhị, đệ tứ quốc tế) và chủ nghĩa đế quốc thực dân đỏ "cộng sản" thực tiễn, tàn bạo của Lê Xít (đệ tam), cứu cánh bạo quyền chuyên chế của các đảng chư hầu; và một phần ghi lý lịch, vị thế, thành tích của các đảng viên lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Việt Nam.

Ông cũng kêu gọi thân hữu/độc giả bỏ công viết và gửi về NgD thì, ngay trong số NgD147, bà Hoàng Thị Ngọ đã đáp ứng như sau:

"[T]hực ra, tôi đồng ý với ông Tô Sử (Con yêu râu xanh, NgD142) là nếu có ai nghe chúng [cộng sản], thì cũng là lỗi ở chúng ta. Họ rất mơ hồ về thực chất cộng sản, về lũ đảng viên cộng sản cha chú. Ðến mức cả cụ Hoàng Cơ Thụy [tác giả bộ Việt Sử Khảo Lược], ngày nay, vẫn còn... nhấn mạnh: "Thiên đường cộng sản (chỉ) là cứu cánh sau cùng của xã hội chủ nghĩa." (Thư gửi Tô Sử, NgD145).

Cụ Thụy cho rằng cộng sản thực hiện thiên đường qua 5 giai đoạn:

"Giai đoạn 5: Cứu cánh sau cùng của xã hội chủ nghĩa là xây dựng một thế giới đại đồng, trong đó ai cũng như ai, cùng chung hưởng mọi tài sản và hạnh phúc như nhau, không còn có chuyện người bóc lột người, không còn phân chia giai cấp tư bản hay vô sản, thống trị hay bị trị, tức là một thiên đường nơi trần thế. Ðó là giai đoạn cộng sản...

Ðó là sự mong muốn của Nguyễn ái Quốc và của mọi con người cộng sản nói chung, theo đúng 21 điều kiện của Lénine. Họ mong thiết lập một xã hội đại đồng, ngõ hầu mang lại hạnh phúc thật sự cho loài người. Họ cuồng tín với cái gọi là Xã hội chủ nghĩa, mà họ nâng lên hàng tôn giáo mới cho toàn thể nhân loại trên năm châu.

Giai đoạn 4: Muốn đạt tới thiên đường ấy, cộng sản cho rằng phải thay đổi cái xã hội mục nát hiện thời, phải loại trừ cái nạn người bóc lột người, bằng cách diệt trừ những giai cấp tư bản đang ăn trên ngồi chóp, phải tịch thu tài sản của bọn họ - coi như là đã bóc lột của dân nghèo - để phân chia lại cho giai cấp vô sản, cho nhân dân.

Ðó là thuyết đấu tranh giai cấp với khẩu hiệu "vô sản trong một nước, hãy đoàn kết nhau lại. Nói vắn tắt, chủ nghĩa cộng sản chứa đựng đầy những biện pháp bạo lực và giết chóc.

Giai đoạn 3: Ðể có thể thực hiện cuộc đấu tranh giai cấp ấy, thì trước hết phải nắm chính quyền, mà chỉ một mình đảng cộng sản nắm chính quyền.

Bởi vì đảng phải có độc quyền chính trị, có công an và võ khí trong tay, thì mới có thể diệt trừ được giai cấp tư bản bằng xử tử hay đưa đi trại cải huấn (nói là để báo thù) và tịch biên tài sản họ. Ðó là thuyết vô sản chuyên chính, bắt đầu ngay ở các cấp địa phương, tức toàn quốc.

Giai đoạn 2: Vậy hồi đầu (tức là trong giai đoạn 1930-1945), Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng Sản Ðông Dương phải lo cướp quyền trong tay thực dân Pháp (rồi phát xít Nhật) và ở dưới là tay sai Việt, tức triều đình Bảo Ðại.

Ðầu tiên là giai đoạn tự lực, với những thất bại chua cay, như vụ Xô Viết Nghệ Tĩnh hồi 1930-31, vụ tổng ruồng vét sạch năm 1939-40. Nhưng từ 1945 trở đi, thời cơ đã xui khiến họ phát động được cuộc chiến tranh 30 năm để thôn tính xong toàn thể nước Việt. Nói vắn tắt, chủ nghĩa cộng sản chứa đựng đầy những biện pháp bạo lực và giết chóc.

Giai đoạn 1: Phải đợi tới hồi 1938, Nguyễn ái Quốc ở Moscou mới nhận được cẩm nang của Staline là trở về nước, liên kết với toàn dân, kể luôn bọn tư bản trí phú địa hào, thì mới mong thắng được kẻ cường quyền Pháp.

Vậy phải giấu nhẹm cái nhãn hiệu cộng sản không ăn khách. Phải đội lốt quốc gia, chỉ nói chuyện ái quốc chống ngoại xạm, giành độc lập, thì mới lôi kéo được toàn dân tham chiến. Nghĩa là phải đóng trò đoàn kết quốc gia, thành lập Mặt Trận Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh tắt là Việt Minh, để đánh đuổi kẻ thù chính là Pháp, rồi Pháp-Nhật. Chừng nào xong thì sẽ diệt kẻ thù phụ là bọn trí phú địa hào. Nói vắn tắt, chủ nghĩa cộng sản đưa phương tiện nói dối lên hàng quốc sách...

Nói tóm tắt, nếu cứu cánh của cộng sản là một thứ hạnh phúc chung cho loài người, thì những phương tiện của họ toàn là nói dối, bạo lực và giết chóc. (Việt sử khảo luận, Hoàng Cơ Thụy, Nam á, 2002, trang 2880-1)

Nghĩa là cụ Thụy cho rằng cái gì cộng sản cũng lừa bịp hết, nhưng cụ tin chắc về cái khoản thiên đường thì họ thành khẩn thực tâm và cương quyết thực hiện. Chỉ tiếc rằng cụ Thụy không hề trả lời ông Tô Sử là "nếu quả thật mục tiêu tối hậu, cứu cánh sau cùng của cộng sản là như thế, thì cao cả quá, sao ta lại chống làm gì nhỉ?" Ðúng thế, dù nói dối, bạo lực và giết chóc, mà là để đạt tới hạnh phúc chung cho loài người, thì cũng đã sao. Ta mà chống họ, là ta đã làm một công việc phản tiến hóa, phản đạo đức, phản hạnh phúc của nhân loại rồi còn gì.

Trái lại chúng ta chống là chính vì biết tỏng cái việc xây dựng thiên đường, mà cụ Thụy quả quyết là cộng sản tính làm thực, mới là điều láo khoét đầu tiên và tổ bố. Lenin, Stalin, Mao Trạch Ðông, Hồ Chí Minh,... chẳng một tên nào mong thiết lập thiên đường, trái lại chúng chỉ quyết tâm thiết lập hỏa ngục. Nói như cụ Thụy, dù là trễ rồi, nhưng cũng vẫn là suy tôn lũ ác quỉ về một điều không bao giờ có thực.

Cụ Thụy xác định thêm là "nói tóm tắt, về mặt thuần túy lịch sử, chỉ từ sau ngày 30-4-1975 tụi Việt Cộng mới bỏ rơi cái lý tưởng thiên đường cộng sản để thi nhau nhào vào thiên đường tham nhũng trên toàn thể đất nước Việt Nam. Chúng áp dụng một thứ tư bản chủ nghĩa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tự biến thành những nhà tư bản đỏ, giàu tỉ phú đô la, từ bọn chóp bu trong Bộ Chính Trị trở xuống bọn công an làng xã. Và độc tài tàn ác hơn trước nữa để giữ chỗ làm tiền.

Nói cách khác, đó là lý do tại sao trong bộ VSKL chính biên tôi chưa đề cập đến cái tội tham lam nhũng lạm của "các đảng viên chỉ muốn cướp của người làm của mình": lời nhận xét của ông (Tô Sử, Giới thiệu sách, NgD143) rất đúng cho giai đoạn hiện thời" (thư đã dẫn).

Cụ Thụy bất kể thực tế là: cộng sản vẫn tham nhũng ngay từ khi nắm được chính quyền và cộng sản bớt độc tài tàn ác khi vào đến Miền Nam (vì dù có muốn tiếp tục cũng không được). Chẳng lẽ cụ Thụy không biết gì về thơ ca hò vè của dân Bắc thời kỳ 1945-75 nói về tham nhũng của cộng sản "chỉ muốn cướp của người làm của mình" sao, về sự "cởi trói" của cộng sản hiện nay sao?

Cụ Thụy lại cũng không giải thích, thành khó mà hiểu tại sao cộng sản chỉ tham nhũng từ 30-4-75. Vào thời điểm đó, Nga Tàu vẫn còn mạnh lắm, vẫn là cộng sản thuần túy. Cái gì khiến Việt Cộng bỏ rơi lý tưởng thiên đường cộng sản, mà hủ hóa. Vì sự phồn vinh giả tạo của Miền Nam? Thế thì sao hồi 1945, hồi 1954, cộng sản ở rừng núi về Hà Nội phồn vinh, mà vẫn không hủ hóa? Còn cộng sản Nga, Tàu, Ðông Âu, Bắc Hàn, Cuba có tham nhũng không, hay chỉ riêng có cộng sản Việt Nam? (1)

Quả rõ ràng là rất ít người hiểu về chủ nghĩa cộng sản, biết về người cộng sản. Ðiều này khiến cho lập trường mọi người vô cùng chao đảo. (NgD147, trang 22)

Rồi bà giải thích:

"Ðầu tiên là, cho đến nay, thiên hạ luôn luôn nhầm lẫn, mang đổ lẫn lộn đệ tử của Mác/Ăng-ghen và Lê/Xít vào cùng một giỏ... cua.

Từ khi có loài người, thì là phải có kẻ thống trị và bị trị, kẻ bóc lột và bị bóc lột. Rồi cái tệ nạn cứ tăng dần với thời gian, cho đến phong kiến và nông nô. Một đàng cứ phải còng lưng làm mà không đủ ăn. Một đàng đêm ngày không tốn một giọt mồ hôi thì lại phè phỡn phủ phê. Các người có đầu óc xã hội nhìn ra sự bất công đó và liên tục tìm cách sửa đổi, ngăn chặn.

Cho đến khi khoa học, kỹ thuật tiến bộ, thì bất công lên đến mức không chịu nổi: Kẻ giầu có thế lực đánh bạt đám tiểu nông, tiểu thương, tiểu thủ công nghệ, biến họ thành công nhân nhà máy, không tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động, bị bóc lột thặng dư giá trị.

Nhưng đồng thời Mác/Ăng-ghen cũng mường tượng một tình trạng tất yếu: Phe tư bản ngày càng tập trung, phe công nhân càng ngày càng đông đảo. Ðến một lúc, một phe thành tối đại thiểu số, một phe thành tối đại đa số. Thế thì phe ít tất phải thua phe nhiều. Vậy chỉ cần sách động cho phe tối đại đa số cùng vùng lên chiếm đoạt lấy tư liệu sản xuất làm của công, thiết lập các công xã (communia/commune/commune/Kommune-La-tinh/Pháp/Anh/Ðức). Ðó là chủ trương của chủ nghĩa Communism, mà đúng ra ta phải dịch là chủ nghĩa công xã hay cùng giả muốn thể hiện ý niệm của chung, của công thì phải là chủ nghĩa công (không dấu nặng) sản Commonism (communis/commun/common, allgemein).

Lại cũng vì lý luận như thế, nên Mác/Ăng-ghen suy diễn là cách mạng nhất định phải phát sinh trước tiên tại nước nào kỹ nghệ hóa nhất, nhiều dân đi làm công hơn cả.

Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, với sự sản xuất dư thừa, thì cứ các tận sở năng, các thụ sở nhu, làm hết sức mình, và tha hồ hưởng thụ, thừa thãi ê hề, chẳng ai buồn tham lam, ích kỷ nữa. Cho nên trong tuyên ngôn 1848 của Mác có khẩu hiệu: Công nhân toàn thế giới, hãy đoàn kết lại! Ðể chôn sống tư bản. Rồi họ thiết lập International Workingmen's Association tại London vào năm 1864, Second International vào năm 1889 tại Paris.

Lý thuyết thì như thế. Nhưng tác giả Hoàng Hôn trong cuốn "Mùa thu cuối lối" (Người Dân, 1994) hỏi đùa, đại khái: Mấy thứ khác tha hồ xài, còn thứ... đàn ông/đàn bà thì sao? Có các tận sở năng, các thụ sở nhu không? Mà... cái mình muốn "các thụ" nó không chịu "các tận" thì mần răng? Thành ra, rút cuộc, cũng vẫn nặng phần tư hữu, không thể nào... chung được. Nghĩa là mấy tổ sư Mác/Ăng-ghen chỉ nói chuyện hão huyền.

Bằng chứng là "cách mạng" lại xảy ra tại nước Nga... nông nghiệp.

Sau khi cướp được chính quyền tại Nga, Lenin thấy được cái triển vọng dùng sự hấp dẫn của chủ thuyết công xã, công sản của Mác để biến toàn thế giới trở thành một đế quốc duy nhất dưới quyền thống trị của nước Nga, bằng cách dụ dỗ những kẻ bất đắc chí, bất mãn ở các thuộc địa Anh Pháp chống lại chủ để mang các đất đai đó sát nhập vào Nga; những kẻ độc ác, tham lam ở Anh Pháp Mỹ cũng như các quốc gia độc lập chống lại nhà nước để gia nhập đế quốc Nga. Ông ta lập ra Communist International (Comintern, Quốc Tế Cộng Sản) tại Moscou năm 1919, dụ dỗ thiên hạ lập đảng và gia nhập, với lời lừa phỉnh rằng Nga là nước theo chủ nghĩa Mác đầu tiên, nên nhiệm vụ hàng đầu của tất cả các đảng chư hầu là phải bảo vệ nước Nga, trong bất cứ trường hợp hoàn cảnh nào. Vậy cả khi Nga có sự tranh chấp với chính tổ quốc mình, thì đảng chư hầu cũng phải phản bội ngay tổ quốc mà bảo vệ Nga. Rồi thì Nga sẽ là đầu tàu dẫn dắt các đảng chư hầu cướp chính quyền, thống trị nhân dân, thực hiện thế giới đại đồng (đế quốc đỏ).

Ðiển hình là Maurice Thorez, chủ tịch đảng chư hầu Pháp. Khi Nga là đồng minh với Anh Pháp chống Ðức phát xít, ông ta tình nguyện đầu quân và hô hào đảng viên nhập ngũ. Khi Nga quay lại đồng minh với Ðức chống Anh Pháp, ông ta đào ngũ trốn sang Nga. Có nghĩa là tất cả đảng viên ở tất cả mọi nơi phải coi Nga là tổ quốc duy nhất, không còn quốc gia, dân tộc nào khác. Có nghĩa là tất cả các đảng viên ở tất cả mọi nơi phải coi Mác/Ăng-ghen là tổ tiên, Lê Xít là ông bà, cha mẹ. Ðiển hình là Hồ Chí Minh, chủ tịch đảng chư hầu Việt Nam, khi chết, không mong gặp tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh hùng quốc gia dân tộc, mà chỉ mong gặp cụ Mác cụ Lê.

Thêm vào, với đảng, phương thức nào cũng tốt, miễn là đạt mục đích - cứu cánh biện minh phương tiện. Cái gì lợi cho đảng là lương tâm, là đạo đức. Mà quyền lợi của đảng là tối thượng. Vậy thì mọi thứ - vật chất, tinh thần - phải thuộc về đảng. Cho nên chữ Communism của Mác/Ăng-ghen không còn là chủ nghĩa công xã hay công sản nữa mà là cộng (với dấu nặng) sản. Nghĩa là mọi thứ đều hoàn toàn phải mang góp vào làm của đảng, thuộc quyền sở hữu của đảng, dù là đất nước, con người, đồ vật, của cải, tuốt tuột, cả đến tâm tư, đầu óc, linh hồn. Bằng chứng, sau khi cướp được chính quyền tại nước Nga nông nghiệp, Lenin tức thời tịch thu tất cả, không một ai còn có quyền tư hữu ruộng đất, nông dân chỉ còn cái quyền è cổ... cày ruộng, không được giữ thóc gạo lại, mà phải nộp cho nhà nước, tức là đảng.

Mà đảng, thực chất, lại là của riêng của các lãnh tụ thôi. Nên tất nhiên tất cả những chiêu bài độc lập, tự do, dân chủ, hạnh phúc, bình đẳng, bác ái, người không bóc lột người chỉ là lời nói suông, hay phải hiểu theo nghĩa của lãnh tụ, nghĩa là hoàn toàn trái ngược.

Nói cho ngắn gọn, chủ nghĩa cộng sản Lê Xít không liên quan gì tới chủ nghĩa công xã hay công sản của Mác Ăng-ghen. Trái lại cộng sản còn ra tay tận diệt cho bằng được công xã hay công sản (xã hội, đệ nhất, đệ nhị, đệ tứ).

ít nhất các đảng viên cao cấp, khi gia nhập đảng cộng sản, thấu hiểu như thế, tuyên thệ như thế và hăng hái, tự nguyện tuân thủ, thi hành.

Chính vì chủ trương phản bội quốc gia dân tộc như vậy, nên ngay ở các nước tiên tiến đến đâu, đảng cũng chỉ được hoạt động trong vòng luật pháp thời bình trị. Mỗi khi biến loạn, là tức khắc bị loại ra ngoài vòng pháp luật, không hề được nương tay.

Không ai có thể phủ nhận được cái thực tế trên đây. Tất cả những người bị sống trong thế giới cộng sản đều đã kiểm chứng được rành mạch, qua các suy nghĩ, lời nói, câu viết, việc làm của các đảng viên khắp nơi đối với lãnh tụ, đối với đảng, đối với tổ quốc Nga. Mọi tình cảm đối với quốc gia dân tộc là lạc hậu, phản động. Tất cả những việc làm đều đã được điều nghiên, nghiền ngẫm, đã được mang thi hành tại Nga, tại Tàu, đã đạt những kết quả mong muốn. Các đảng chư hầu đều phải mang thực hiện, theo chỉ thị, đường lối, chính sách, đều phải báo cáo về thiên triều: Ðó là phải tiêu diệt các thành phần hiểu biết, bất phục tòng; đó là làm sao cho toàn dân trở thành ngu dốt và đói rách để dễ cai trị, để duy trì quyền bính. Chẳng làm gì có việc họ "sai lầm" như một số người không cộng sản chê trách, hay hí hửng khi thấy họ "sửa sai". (sđd, trang 17-18)

Và, cuối cùng, bà đề nghị:

Chúng ta cần có ngay một tài liệu "Việt Cộng nhân vật chí" để giúp mọi người biết rành mạch về các người cộng sản cha chú ở Việt Nam. Trong đó có ghi rõ họ tên, bí danh, ngày sinh, ngày tử, dòng dõi, quê hương, hình ảnh, thành tích càng chính xác trung thực càng tốt.

Bắt đầu có lẽ tạm lục tìm các tài liệu hiện hữu, đối chiếu, kiểm chứng và công bố lần lần, để ai biết sự sai lầm thì đính chính, sự thiếu sót thì bổ khuyết, thì rồi sẽ có lý lịch đích xác về từng cá nhân một. Chúng ta không bịa đặt, vu cáo làm gì nên cần phải làm sớm, để những người cùng thời, biết đích xác về các đương sự, có cơ hội giúp cho tài liệu trở thành giá trị vĩnh cửu; bằng không, quí vị đó... ra đi, thì rồi không ai biết sự thực ra sao. (sđd, trang 22-23)


%% Xin xem tiếp phần sau