Năm 1947, năm tuyên bố Hiến Pháp và thành lập Quốc Gia, 30 năm sau, năm 1977 lợi tức đầu người hằng năm của họ là 10600 Mỹ Kim (tài liệu Istat, Viện Thống Kê ).
Năm 1949, năm tuyên bố Hiến Pháp và thành lập Cộng Hoà Liên Bang Ðức, 30 năm sau, năm 1979, lợi tức đầu người hằng năm người dân Ðức là 12470 Mỹ Kim.
Năm 1975, năm "thống nhất đất nước" và thành lập Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, 28 năm sau, năm 2003, lợi tức đầu người hằng năm người dân Việt Nam chưa đến 400 Mỹ Kim (tài liệu WB, Ngân Hàng Thế Giới). So sánh trong cũng khoảng thời gian: 10600 / 400= 26: người lúc đó, năm 1977, giầu có hơn ngườiViệt Nam hiện tại 26 lần và 12470/ 400=31: người Ðức lúc đó, năm 1979, giầu có hơn ngườiViệt Nam hiện tại 31 lần.
Ðức và Ý là hai quốc gia bị thế chiến thứ II, tàn phá không kém gì Việt Nam. Vậy mà Ðức và Ý ở trong cũng khoảng thời gian đó " ngóc đầu" lên được, giầu có hơn Việt Nam 31 và 26 lần. Tại sao họ tiến bộ được, Việt Nam không?
Lý do nào đang khiến cho Việt Nam là một trong những Quốc Gia nghèo mạt và lạc hậu nhất thế giới?
Trong khi đó thì từ thập niên 1980 trở đi, Ðức và Ý là hai Quốc Gia thuộc nhóm cường quốc kỹ nghệ nhất thế giới ( G-7), Việt Nam đang ở đâu? Không cần nói đến Ðức, so với Việt Nam, Ý không có diện tích lớn hơn Việt Nam, dân chúng cũng không đông hơn, hai phần ba đất đai của Ý là đồi núi không trồng trọt được, quặng mỏ cũng không có gì, không có dầu hỏa và than đá như Việt Nam, ngư sản chắc cũng không phong phú gì hơn Việt Nam. Vậy mà năm 1977 người dân ở đó giầu có hơn người dân Việt Nam 26 lần!
Chúng tôi không có con số chính xác, nhưng chắc chắn rằng hơn 50% dân chúng Việt Nam sống về nông nghiệp, trong khi đó thì ở những Quốc Gia kỹ nghệ hoá con số trên chưa đến 15%. Ðiều đó cho thấy rằng hơn 50% dân chúng Việt Nam phải chuyên về nông nghiệp để nuôi sống dân chúng, trong khi đó thì chỉ cần không đến 15% dân chúng lo về đồng áng cũng đủ nuôi sống cả xứ, ở những nước kỹ nghệ hóa. Số người còn lại sẽ được chuyển qua các ngành kỹ nghệ và phục vụ, mức sống của Quốc Gia được nâng cao như vậy.
Trên 80% kỹ nghệ của Ý là kỹ nghệ biến chế, trên 36% dân chúng có bằng đại học và trên 90% có bằng trung học. Nêu lên những con số vừa kể, chúng tôi chỉ có ý nói rằng yếu tố chính yếu để phát triển Quốc Gia không phải chỉ là " tư bản" (tiền bạc, cơ sở, máy móc, tài nguyên) cho bằng yếu tố nhân bản hay "số vốn nhận thức" (human capital). Stephan Roman, nguyên Bộ Truởng Bộ Ngoại Giao Tiệp Khắc (thời Cộng Sản), đang tị nạn tại Hoa Kỳ đã viết một câu chí lý: "Nhận thức" human capital) là nguồn mạch nguyên thủy của sự sung mãn nhân loại. "Nhận thức" là số vốn nguyên thủy của loài người. Dầu hỏa đã có từ mấy ngàn năm nay, nhưng vẫn còn nằm yên dưới các lớp cát ở các xứ Ả Rập, cho đến khi nhân loại khám phá ra cách sử dụng của nó. Có hằng hà sa số sự vật mà Thiên Chúa đã dựng nên, trải qua không biết bao nhiêu ngàn năm vẫn không dùng được vào việc gì, cho đến khi con người khám phá ra giá trị của chúng. Bao nhiêu vật mà hôm nay chúng ta cho là tài nguyên, một trăm năm trước đây không ai gán cho chúng giá trị hiện tại. Và bao nhiêu vật khác mai đây sẽ có giá trị, nhưng hôm nay chúng ta chưa biết sử dụng chúng. Chiếc cầu dẫn đến sự phú quý, chính là trí khôn của con người vậy" (Stephan Roman, cit by Michael Novak, The Spirit of Democratic Capitalism, N.Y., Simon anh Schuster Inc., 1982, p. 127-128).
Hiểu được yếu tố nhân bản là " nguồn mạch, là số vốn nguyên thủy, là chiếc cầu dẫn đến sự phú quý", để phát triển đem lại thịnh vượng và tiến bộ cho xứ sở, chúng ta thử duyệt xét xem con người được quan niệm thế nào trong thể chế của hai Quốc Gia tiến bộ vừa được đề cập và mặc nhiên! đặt dấu hỏi phải chăng Việt Nam chúng ta còn là một trong những Quốc Gia nghèo đói và lạc hậu nhất thế giới vì thể chế tối tăm không biết tôn trọng con người.
a) Tự do tiêu cực.
Ðọc bất cứ Hiến Pháp nào trên thế giới, chúng ta đều thấy các Hiến Pháp nêu ra các quyền căn bản bất khả xâm phạm của con người dưới hình thức tiêu cực ( tự do khởi, liberté de...) - " Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm" (Ðiều 1, Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Ðức).- "Tự do cá nhân bất khả xâm phạm" ( Ðiều13, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc). Và lần lượt tất cả các quyền căn bản khác, tự do cư trú, di chuyển, bảo mật thư tín, phát biểu và tuyên bố tư tưởng... được liệt kê.
Liệt kê dưới hình thức tiêu cực như vừa kể, hàm chứa việc "phía bên kia phải tôn trọng". Tuyên bố " Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm" đồng nghĩa với câu nói " không ai được xâm phạm nhân phẩm con người, nhất là những ai có quyền lực trong tay, nhất là Chính Quyền ".
b) Con người trung tâm điểm và ở địa vị tối thượng.
Nhưng tôn trọng và bảo vệ con người, hay phát huy yếu tố nhân bản, trong chính thể dân chủ các Quốc Gia Tây Âu không những chỉ có vậy, được bảo vệ chống lại mọi bạo lực, chống lại mọi lạm quyền đàn áp của Quốc Gia. Quan niệm vừa kể là quan niệm tối thiểu, con người được bảo đảm chống lại mọi bạo quyền, thoát xuất từ các kinh nghiệm " thần xử tử vong" (vua phán là thần dân chịu chết) và độc tài giết người không gớm tay của Hitler và Mussolini. Những Quốc Gia trong thể chế dân chủ và nhân bản Tây Âu không phải là tên bạo chúa, cần phải bị luật pháp kìm hãm, không được dùng quyền hành được ủy thác cho để đàn áp lại con người, chủ nhân của quyền lực Quốc! Gia. Con người là chủ nhân của đất nước, có trước tổ chức Quốc Gia.
Tổ chức Quốc Gia được nhiều người đồng thuận thiết lập nên để phục vụ con người chứ không ngược lại: "Quốc Gia nhận biết và bảo vệ các quyền căn bản bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân, hay con người như thành phần tổ chức xã hội, nơi họ hoạt động phát triển nhân cách con người của mình" ( Ðiều 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc). Các từ ngữ " nhận biết và bảo vệ" nói lên địa vị trung tâm điểm và tối thượng của con người trong tổ chức Quốc Gia, có trước Quốc Gia và Quốc Gia được tổ chức để phục vụ. Ðó là ý niệm về con người trong thể chế dân chủ.
c) Tự do tích cực.
Xác tín được địa vị cao cả và trọng tâm quyền lực của Quốc Gia như vừa kể, Quốc Gia không thể chỉ bị giới hạn " không được vi phạm các quyền bất khả xâm phạm của con người, không được cấm đoán con người hưởng các quyền của mình" ( tự do tiêu cực , liberté de...), mà còn có bổn phận khuyến khích con người dùng các quyền tự do của mình để (tự do tích cực, hay tự do để..., liberté à...) mưu ích cho mình và cho đất nước: " Mỗi công dân đều có quyền tự do gia nhập chính đảng để bằng phương thức dân chủ góp phần định đoạt chính huớng Quốc Gia" (Ðiều 49, Hiến Pháp 1947 Ý). Người công dân không phải chỉ không bị đàn áp trói buộc, mà là chủ nhân quyền lực Quốc Gia có quyền định đoạt vận mệnh Quốc Gia, "để bằng phương thức dân chủ góp phần định đoạt chính huớng Quốc Gia".
Quan niệm như vậy, Quốc Gia không phải là bạo chúa, là ác thần cần phải trói buộc bằng các dây xích pháp luật để khỏi tác oai, tác quái, mà là đầy tớ trung tín và sáng suốt giúp con người được thỏa mãn cuộc sống của mình, cho mình và cho đồng bào mình.
Mục đích của tổ chức Quốc Gia do đó là làm thế nào để con người "... phát triển hoàn hảo con người của mình và tham dự một cách thiết thực vào các tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở " ( Ðiều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý).
d) Tự do nhờ cơ chế Quốc Gia.
Nhưng dù một mình, con người bị nhiều yếu tố và hoàn cảnh ràng buộc, khó mà tự mình có thể "phát triển hoàn hảo con người của mình và tham gia một cách thiết thực vào các tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở", hay "Mỗi người có quyền phát triển hoàn hảo con người của mình, miễn là không làm tổn thương đến quyền của người khác và không vi phạm thể chế hiến định hay lệ luật luân lý" (Ðiều 2, Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Ðức).
Muốn cho con người được sống đầy đủ con người của mình, cuộc sống hạnh phúc và xứng đáng với nhân vị , " phát triển hoàn hảo con người của mình" và lợi ích cho người khác, "tham gia một cách thiết thực vào các tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở", con người phải cần nhờ đến Quốc Gia can thiệp để trợ lực: " Bổn phận của Quốc Gia là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những chướng ngại vật, trong khi cản trở! #7903; thực sự tự do và bình đẳng của người dân, cản trở họ phát triển hoàn hảo con người của mình và tham gia một cách thiết thực vào các tổ chức chính trị, xã hội và kinh tế của xứ sở" ( Ðiều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý).
Nói cách khác, con người được hưởng tự do của mình để sống hạnh phúc cho mình và lợi ích cho người khác, nhờ cơ chế Quốc Gia (liberté par moyen de...).
Muốn cho người dân thành đạt trong cuộc đời của mình và chu toàn nhiệm vụ liên đới với đồng bào mình: " Mỗi người công dân có quyền, tuỳ theo khả năng và sự chọn lựa của mình, có một việc làm hay một chức vụ, để góp phần vào việc tiến bộ vật chất hay tinh thần của xã hội" (Ðiều 4, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý), Quốc Gia có bổn phận phải cung cấp cho người dân các yếu tố và điều kiện như:
- " Học đường được mở cửa cho tất cả. Nền giáo dục ở cấp thấp, được giảng dậy ít nhất là tám năm, bắt buộc và miễn phí (đến 18 tuổi , Tu Chính án L. 20.01.1999, n.9, art.68). Những ai có khả năng và đáng được tưởng thưởng, dầu cho thiếu phương tiện, cũng có quyền học đến các trình độ cao cấp. Quốc Gia biến quyền này thành thực hữu, bằng học bổng, phổ cập gia đình và các tiên liệu khác, được cấp phát qua các kỳ thi tuyển" (Ðiều 34, đoạn 1, 2, 3 và 4 Hiến Pháp 1947 Ý).
Hoặc:
- "Với những phương tiện kinh tế hay các phương thức tiên liệu khác, Quốc Gia dành mọi điều kiện để rồi gia đình được thành lập và chu toàn các bổn phận liên hệ của mình, nhất là đối với những gia đình đông con.
" Quốc Gia bảo vệ thiên chức làm mẹ, trẻ thơ và thanh thiếu niên bằng cách dành mọi dễ dàng cho các cơ chế cần thiết để đáp ứng" (Ðiều 31, đoạn 1 và 2 , id.).
- "Quốc Gia bảo vệ việc làm dưới tất cả mọi hình thức và mọi áp dụng. Chăm lo huấn nghệ và thăng tiến nghề nghiệp của người công nhân. Cổ vũ và ưu đãi các thỏa ước và tổ chức quốc tế để xác nhận và điều hoà các quyền làm việc" ( Ðiều 35, đoạn 1, 2 và 3 , id.).
Nói tóm lại, trong thể chế dân chủ tự do, tổ chức Quốc Gia không phải là ác thần, bạo chúa, cần phải bị trói tay, buộc chân, bịt miệng để khỏi nói bậy và tác oai tác quái đàn áp tùy hỉ. Con người, trong thể chế dân chủ tự do không phải là thần dân tôi tớ, sẵn sàng bị ác thần hay bạo chúa sai khiến, đánh đập, bức tử, giết chóc. Con người, trong thể chế dân chủ tự do là chủ nhân của quyền lực Quốc Gia, có mọi tư cách để huởng quyền tự do của mình như chủ nhân và được tổ chức Quốc Gia phục vụ để sống hạnh phúc và cộng tác đem lại thịnh vương tiến bộ cho đồng bào mình, "... phát triển hoàn hảo con người của mình và tham gia một cách thiết thực vào các tổ chức chính trị , kinh tế và xã hội của xứ sở".
Con người trong thể chế dân chủ tự do có quyền và điều kiện sống cuộc sống xứng đángvới địa vị con người của mình, thích hợp với bản năng của mình, như cá được đặt vào nước để tung tăng bơi lội.
Con người được đặt trong hoàn cảnh như vậy, làm gì mà không uớc muốn phát huy nhân cách của mình và nỗ lực làm việc tạo thịnh vượng và tiến bộ cho đất nước.
Người Ý và người Ðức trong cũng một khoảng thời gian xây dựng lại đất nước sau chiến tranh đã giỏi hơn người Việt Nam 26 và 31 lần, bởi vì thể chế dân chủ tự do của họ giỏi hơn thể chế Xã Hội Chủ Nghĩa tối tâm 26 và 31 lần!
Chúng tôi xin mượn lời của Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để kết thúc những giòng suy tư này: " Sự sai lầm căn bản của Xã Hội Chủ Nghĩa là sự sai lầm mang tính cách nhân bản học (antropologico). Chủ thuyết trên, trên thực tế, quan niệm con người chỉ là một yếu tố, một tế bào trong cơ chế xã hội. Và từ đó, hạnh phúc cá nhân tùy thuộc vào cơ chế hoạt động kinh tế, xã hội..." (Centesimus Annus, 13).